TỔNG QUÁT VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM.
1. Khái niệm giao dịch đảm bảo là gì ?
Giao dịch bảo đảm là Hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản theo đó bên bảo đảm cam kết với bên nhận bảo đảm về việc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Đăng ký giao dịch bảo đảm là việc cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm ghi vào Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc nhập vào Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm việc bên bảo đảm dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm.
Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm là sổ chuyên dùng để đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc sổ có một phần dành để đăng ký giao dịch bảo đảm
2. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
Việc bảo đảm nghĩa vụ dân sự luôn gắn với trách nhiệm dân sự về tiền, tài sản và việc trả nợ, nên trong nhiều trường hợp còn được gọi là bảo đảm nghĩa vụ tài chính, bảo đảm nghĩa vụ tài sản hay bảo đảm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng.
Hợp đồng là một chế định pháp lý quan trọng và phổ biến nhất để mọi chủ thể thực hiện các hoạt động dân sự, kinh doanh, thương mại, hành chính. Vì vây, Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ gọi là “hợp đồng”, thay vì “hợp đồng dân sự’ như trước đây.
Các biện pháp bảo đảm hợp đồng tuy chỉ là hợp đồng phụ, nhưng trong nhiều trường hợp lại đóng vai trò quan trọng hơn cả hợp đồng chính. Chẳng hạn, nếu như một hợp đồng cho vay bị vô hiệu thì hậu quả pháp lý xấu nhất chỉ là không được quyền thu tiền lãi (vẫn có quyền thu hồi đủ số tiền gốc), nhưng nếu như một hợp đồng bảo đảm tiền vay bị vô hiệu thì bên cho vay có nguy cơ không thu hồi được cả nợ gốc và lãi.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy định chủ yếu trong Bộ luật Dân sự1, đồng thời cũng được đề cập trong hàng chục đạo luật khác như Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Luật Đất đai , Luật Doanh nghiệp , Luật Hàng không dân dụng Việt Nam , Luật Lâm nghiệp , Luật Nhà ở , Luật Thủy sản , ngoài ra còn được quy định trong nhiều văn bản dưới luật.
Năm 2021 pháp luật quy định, “trường hợp pháp luật về đất đai, nhà ở, đầu tư, doanh nghiệp, chứng khoán, bảo hiểm, ngân hàng, tài nguyên thiên nhiên, thủy sản, lâm nghiệp, hàng không, hàng hải, sở hữu trí tuệ, khoa học và công nghệ hoặc lĩnh vực khác có quy định đặc thù về tài sản bảo đảm, xác lập, thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc xử lý tài sản bảo đảm thì áp dụng quy định đặc thù đó” – theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 về “Áp dụng pháp luật và thỏa thuận về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”, Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ “Quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”.
3. Biện pháp bảo đảm được áp dụng một cách rất rộng rãi, phổ biến
Trước đó, các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng nói chung lần đầu tiên được quy định trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Dân sự .
Biện pháp bảo đảm được áp dụng một cách rất rộng rãi, phổ biến trong việc bảo đảm các điều kiện đầu tư kinh doanh và mọi giao dịch dân sự (như cho vay, dịch vụ, đại lý, đầu tư, đấu giá, gia công, giao đất, gửi giữ, khai khoáng, mua bán, nợ thuế, tạm nhập tái xuất, thuê mượn, vận chuyển, xây dựng, xuất khẩu lao động, V.V.); trống đó chủ yếu là việc bảo đảm thực hiện hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh doanh thương mại (Riêng cụm từ “giao dịch bảo đảm” lần đầu tiên xuất hiện trong Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về “Giao dịch bảo đảm” và các hợp đồng khác.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, có 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp và cầm giữ tài sản. Trong đó có 7 biện pháp được gọi là giao dịch bảo đảm; trừ 2 biện pháp cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu thì chỉ là biện pháp bảo đảm, chứ không phải là giao dịch bảo đảm. Bảo lưu quyền sở hữu đã xuất hiện ỏ trong cả hai Bộ luật Dân sự năm , còn cầm giữ tài sản cũng đã xuất hiện trong Bộ luật Dân sự năm , nhưng lại đều không được coi là biện pháp bảo đảm theo quy định của hai Bộ luật này.
Như vậy, các biện pháp bảo đảm gần như trùng với các giao dịch bảo đảm theo quy định của hai Bộ luật Dân sự , nhưng là khác nhau theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Bộ luật Dân sự năm 1995 có 53 đỉều quy định về biện pháp bảo đảm (từ Điều 324 đến Điều 376) và 70 điều của 2 Nghị định hướng dẫn (chưa kể 39 điều hướng dẫn riêng cho các tổ chức tín dụng). Bộ luật Dân sự năm cũ có 70 điều quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (từ Điều 318 đến Điều 387) và 128 điều của 2 Nghị định hướng dẫn (Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về “Giao dịch bảo đảm” (đã hết hiệu lực); Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày10/3/2000 của Chính phủ về “Đăng ký giao dịch bảo đảm” (sửa đổi, bổ sung theo Nghị đỉnh số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004, đã hết hiệu lực); Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về “Bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng” (đã hết hiệu lực) và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về “Giao dịch bảo đảm” (sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 và Nghị định số ll/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012, đã hết hiệu lực); Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 về “Đăng ký giao dịch bảo đảm” (sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012, đã hết hiệu lực). Bộ luật Dân sự năm 2015 có 59 điều về quy định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (từ Điều 292 đến Điều 350), giảm 11 điều so với Bộ luật Dân sự năm 2005 do nhiều quy định được chuyển sang các phần quy định chung về tài sản và giao dịch, có 132 điều của 2 Nghị định hướng dẫn (Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về ‘Dăng ký biện pháp bảo đảm” và Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ “Quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”).
Mặc dù các biện pháp bảo đảm nói chung, giao dịch bảo đảm nói riêng, đã được quy định trong cả 3 Bộ luật Dân sự 1995, 2005, 2015, với những nội dung ngày càng chi tiết, cụ thể hơn, tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc và chưa hợp lý.Nhìn chung, hệ thống các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm hiện nay còn khá tản mạn, chồng chéo, phức tạp, mâu thuẫn, khó cho việc theo dõi và thực hiện. Điều này gây ra rất nhiều khó khăn cho cả việc quản lý và thực thi pháp luật về biện pháp bảo đảm.
4. Pháp luật quy định thỏa thuận về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo hướng
Là một nội dung của hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng bảo lãnh, nhưng khi xác lập hợp đồng các bên vẫn có thể thỏa thuận để lập một hợp đồng bảo đảm riêng biệt.
Không quy định rõ là một nội dung của hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng bảo lãnh mà chỉ quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ để các bên lựa chọn.
Như vậy, sự tồn tại của thỏa thuận về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng bảo lãnh dù được biểu đạt trong hợp đồng tín dụng hay văn bản riêng biệt thì thỏa thuận này vẫn chứa đầy đủ các nội dung của một giao dịch hợp đồng.
Do đó, giao dịch bảo đảm trong hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và người vay hoặc giữa tổ chức tín dụng và người vay với người thứ ba dùng tài sản hoặc uy tín của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán số tiền đã được tổ chức tín dụng giao cho người vay, xác lập quyền xử lý tài sản bảo đảm hoặc quyền yêu cầu của người thứ ba phải thực hiện nghĩa vụ này thay cho người vay khi người vay không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng tín dụng.
5. Nội dung của giao dịch bảo đảm
Đối tượng của nghĩa vụ được bảo đảm trong hợp đồng tín dụng là nghĩa vụ của toàn bộ hợp đồng tín dụng, bao gồm tiền gốc và tiền lãi phát sinh. Tài sản bảo đảm bao giờ cũng phải lớn hơn nghĩa vụ của toàn bộ hợp đồng tín dụng.
Tài sản bảo đảm, thay đổi tài sản bảo đảm. Việc thay đổi tài sản bảo đảm có thể dẫn tới việc thay đổi biện pháp bảo đảm hoặc chủ thể tham gia giao dịch bảo đảm, nếu có sự thay đổi thì các bên phải tuân thủ quy định của pháp luật liên quan đến việc thay đổi. Cần lưu ý:
Tài sản bảo đảm là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai (Tài sản được hình thành từ tiền vay, tài sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc đang được tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, tài sản đã hình thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu nhưng sau thời điểm giao kết thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của pháp luật và khẳng định tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất) mà pháp luật không cấm giao dịch.
Tài sản bảo đảm có thể là sở hữu của bên bảo đảm hoặc của người thứ ba mà pháp luật không cấm lưu thông. Tài sản bảo đảm có thể liên quan đến các luật chuyên ngành như luật đất đai, luật nhà ở, luật kinh doanh bất động sản…
Trường hợp giao dịch bảo đảm có giá trị pháp luật đối với người thứ ba thì cơ quan có thẩm quyền không được kê biên tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ khác của bên bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Tổ chức tín dụng khi cho vay cần kiểm tra tài sản bảo đảm có phải là tài sản của người đang bị thi hành án hay không, kể cả trong trường hợp chưa bị áp dụng biện pháp kê biên để tránh rủi ro. Bởi vì, theo điều 6 khoản 1 thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/07/2010 hướng dẫn một số vấn đề thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự quy định:
“Kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu có tranh chấp thì chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện tại toà án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày được thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản để thi hành án”.
Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong giao dịch bảo đảm được thỏa thuận trên nguyên tắc tự nguyện định đoạt, bình đẳng. Xử lý tài sản bảo đảm theo BLDS năm 2015 không quy định cụ thể về các trường hợp được xử lý tài sản bảo đảm, nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 tại chương IV từ điều 56 đến điều 70 đã quy định về các trường hợp được xử lý tài sản bảo đảm. Một trong những điểm mở của nghị định là “Các trường hợp được xử lý tài sản bảo đảm khác do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định” ngoài các trường hợp được dự liệu tại điều 56 khoản 1 nghị định số 163/2006/NĐ-CP. Các bên có thể lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp như hòa giải, thương lượng, tố tụng trọng tài, tố tụng toà án.
II. THỰC TRẠNG HẠN CHẾ GIAO DỊCH ĐẢM BẢO
Hoạt động cấp tín dụng thường tiềm ẩn nhiều rủi ro, do đó, các biện pháp bảo đảm được áp dụng tương đối phổ biến. Biện pháp bảo đảm không phải là điều kiện bắt buộc phải có, nhưng là một trong các yếu tố quan trọng để tổ chức tín dụng (TCTD) đánh giá, quyết định cấp tín dụng cho khách hàng.
Khi khách hàng không trả được nợ, biện pháp bảo đảm là cơ sở để TCTD có thể thu hồi được khoản nợ từ khách hàng. Tuy nhiên, để biện pháp bảo đảm phát huy được hiệu quả thì cần có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của chủ nợ trong quá trình xác lập giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) thu hồi nợ. Khi các quy định về xử lý TSBĐ đủ rõ ràng, đồng bộ, thống nhất không chỉ là cơ sở để TCTD có thể xử lý TSBĐ nhanh chóng mà còn có tính chất ngăn chặn bên bảo đảm vi phạm nghĩa vụ của mình tại hợp đồng bảo đảm.
Thực trạng hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm tại Việt Nam
Hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm tại Việt Nam tương đối phức tạp, bao gồm các quy định chung, các quy định theo pháp luật chuyên ngành và quy định đặc thù cho hoạt động xử lý nợ xấu của TCTD.
Với bản chất hình thành từ các quan hệ dân sự, biện pháp bảo đảm được quy định trong hệ thống pháp luật dân sự chung. Bộ luật Dân sự (BLDS) hiện hành quy định một Mục riêng về giao dịch bảo đảm, bao gồm các quy định về các biện pháp bảo đảm, phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm, TSBĐ, hiệu lực đối kháng với người thứ ba, đăng ký biện pháp bảo đảm, các biện pháp xử lý TSBĐ, một số quy định riêng áp dụng cho từng biện pháp bảo đảm.
Trên cơ sở quy định tại BLDS, các văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành đã tạo khung pháp lý tương đối đầy đủ về giao dịch bảo đảm, cụ thể: Nghị định số 163/2006/NĐ-CPngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006); Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm; Thông tư số 08/2018/TT-BTP ngày 20/6/2018 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại các trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 06/2020/TT-BTP ngày 17/12/2020 của Bộ Tư pháp); Thông tư số 01/2019/TT-BTP ngày 17/01/2019 hướng dẫn một số nội dung về đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển; Thông tư số 07/2019/TT-BTP ngày 25/11/2019 hướng dẫn một số nội dung về đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06/6/2014 giữa Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn một số vấn đề về xử lý TSBĐ (Thông tư liên tịch số 16).
Song song với hệ thống pháp luật chung về giao dịch bảo đảm được quy định tại BLDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành, biện pháp bảo đảm còn được điều chỉnh tại các văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan đến điều kiện nhận bảo đảm, việc xử lý TSBĐ. Ví dụ: Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định biện pháp bảo đảm là thế chấp đối với TSBĐ là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, điều kiện để tài sản này được sử dụng làm TSBĐ. Bên cạnh đó, Luật Đất đai cũng quy định về điều kiện hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm có hiệu lực (phải được công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm). Mặc dù không có quy định riêng về xử lý TSBĐ nhưng pháp luật về đất đai quy định đặc thù liên quan đến các giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, điều này dẫn tới việc xử lý TSBĐ đối với loại tài sản này cũng cần tham chiếu tới pháp luật về đất đai do mục đích cuối cùng của việc xử lý TSBĐ là giao dịch chuyển nhượng tài sản.
Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản cùng hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành cũng có quy định điều kiện riêng đối với việc nhận TSBĐ là nhà ở, nhà ở hình thành trong tương lai, dự án đầu tư xây dựng nhà ở, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo đảm, thời điểm, điều kiện, trình tự, thủ tục chuyển nhượng tài sản.
Đối với các giao dịch bảo đảm có đối tượng là bất động sản kể trên, ngoài các văn bản điều chỉnh chính tại Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và các văn bản hướng dẫn thi hành, thì còn được điều chỉnh ở một số văn bản liên quan khác như: Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Quy hoạch, Luật Thuế, Luật Bảo vệ môi trường . Đối với TSBĐ là chứng khoán, Luật Chứng khoán quy định riêng về hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm đối với chứng khoán, việc chuyển nhượng chứng khoán. Việc xử lý TSBĐ liên quan đến doanh nghiệp đang trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản cũng cần tuân thủ các quy định pháp luật về phá sản để giải quyết.
Lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực mà các giao dịch bảo đảm được áp dụng nhiều nhất. Theo đó, một số quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm được áp dụng riêng trong hoạt động ngân hàng. Ngày 21/6/2017, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết 42). Đây được coi là văn bản cao nhất quy định một cơ chế đặc thù riêng cho hoạt động xử lý TSBĐ của các khoản nợ xấu của TCTD. Nghị quyết được ban hành là sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và toàn ngành Ngân hàng trong việc xử lý và giảm tỷ lệ nợ xấu tại các TCTD. Các quy định tại Nghị quyết được xây dựng trên cơ sở đánh giá những tồn tại, khó khăn trong quá trình xử lý nợ xấu của các TCTD do vướng mắc quy định tại các luật hiện hành, qua đó, đề xuất một cơ chế riêng được áp dụng cho hoạt động xử lý nợ xấu của các TCTD.
Những tác động tích cực của hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm tới quá trình xử lý TSBĐ nói riêng và xử lý nợ xấu nói chung của TCTD
Trong thời gian qua, hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm tại Việt Nam được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện liên tục nhằm đáp ứng yêu cầu tạo hành lang pháp lý đầy đủ, thống nhất cho công tác xử lý nợ, đặc biệt là nợ xấu tại TCTD. Điều này được thể hiện ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm thời gian qua đã được rà soát, sửa đổi, bổ sung để xử lý các khó khăn, vướng mắc trong quá trình nhận bảo đảm và xử lý TSBĐ của TCTD, qua đó, giảm thiểu được rủi ro pháp lý cho TCTD trong quá trình nhận TSBĐ, hỗ trợ, tháo gỡ nút thắt về pháp lý cho quá trình xử lý TSBĐ, ví dụ như, việc sửa đổi, bổ sung quy định tại Luật Nhà ở, trong đó, cho phép các bên được giao dịch nhà ở hình thành trong tương lai; việc ban hành Thông tư liên tịch số 16 quy định về xử lý TSBĐ, trong đó xử lý các khó khăn, vướng mắc trong quá trình định giá, chuyển nhượng quyền sở
hữu TSBĐ
Thứ hai, nhiều quy định pháp luật về xử lý TSBĐ được luật hóa, đảm bảo cơ sở pháp lý cho TCTD trong quá trình xử lý nợ xấu. Điều này được thể hiện rõ nét nhất trong quá trình xây dựng BLDS năm 2015, một số quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã được rà soát để đưa vào Bộ luật, ví dụ: Quy định về thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất; các quy định về xử
lý TSBĐ
Quá trình luật hóa các quy định liên quan đến giao dịch bảo đảm và xử lý nợ xấu của các TCTD cũng được thể hiện trong quá trình xây dựng Luật Đấu giá tài sản năm 2016. Luật Đấu giá tài sản đã dành một Mục riêng quy định về đấu giá nợ xấu và TSBĐ của khoản nợ xấu. Một số quy định tại Mục này là luật hóa từ quy định tại Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), như quy định quyền của VAMC được bán đấu giá TSBĐ thông qua tổ chức bán đấu giá hoặc tự bán đấu giá TSBĐ. Việc ghi nhận nội dung này tại Luật Đấu giá tài sản đảm bảo cơ sở pháp lý đầy đủ để VAMC triển khai hoạt động xử lý TSBĐ thông qua đấu giá tài sản.
Thứ ba, văn bản quy phạm pháp luật về giao dịch bảo đảm áp dụng riêng cho hoạt động xử lý nợ xấu của TCTD được ban hành, đặc biệt là việc ban hành Nghị quyết 42 đã tạo cơ sở pháp lý cho TCTD có cơ chế riêng thuận lợi hơn để đẩy nhanh quá trình xử lý TSBĐ và xử lý nợ xấu. Việc Quốc hội thể chế hóa công tác xử lý nợ xấu thông qua việc xây dựng và ban hành Nghị quyết 42 đã khắc phục các tồn tại, hạn chế trong công tác xử lý TSBĐ nói riêng và xử lý nợ xấu nói chung, tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất và đồng bộ về xử lý nợ xấu, hỗ trợ các TCTD, VAMC trong việc xử lý hiệu quả, dứt điểm nợ xấu, như: Nghị quyết 42 đã có quy định về quyền thu giữ TSBĐ của TCTD/VAMC, qua đó, xử lý được khó khăn, vướng mắc do thiếu cơ sở pháp lý về quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu của TCTD sau khi BLDS năm 2015 được ban hành. Nghị quyết cũng cho phép áp dụng trình tự, thủ tục tố tụng rút gọn khi giải quyết các tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ và tranh chấp về quyền xử lý TSBĐ, tạo cơ sở pháp lý để Tòa án thúc đẩy nhanh quá trình giải quyết vụ án liên quan đến xử lý TSBĐ… Bên cạnh ý nghĩa về pháp lý, Nghị quyết 42 còn có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao ý thức tuân thủ từ phía khách hàng vay vốn.
Một số hạn chế, vướng mắc và đề xuất
Bên cạnh những mặt đạt được, hệ thống pháp luật về biện pháp bảo đảm còn tồn tại những hạn chế, cản trở đến quá trình xử lý nợ xấu của các TCTD. Cụ thể:
Một là, một số quy định pháp luật hiện hành chưa phù hợp với thực tiễn, khó khăn cho TCTD khi thực hiện xử lý TSBĐ, thu hồi nợ. Ví dụ:
Về thu giữ TSBĐ: Quyền thu giữ tài sản của bên nhận bảo đảm đã được ghi nhận tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP. Tuy nhiên, tại BLDS năm 2015, quyền này chưa được ghi nhận. Trên thực tế, bên nhận bảo đảm khi tiến hành thu giữ phải đảm bảo các điều kiện chặt chẽ và không được áp dụng các biện pháp trái pháp luật. Quyền thu giữ như một tín hiệu bảo vệ quyền của chủ nợ và răn đe đối với con nợ không vi phạm, không bội ước, hợp tác xử lý tài sản theo thỏa thuận đã ký kết. Bên cạnh đó, cần phải nhận thức đúng rằng, bản chất quan hệ và mục đích của biện pháp bảo đảm là dành cho bên nhận bảo đảm quyền định đoạt có điều kiện. Quyền đó được pháp luật thừa nhận mà không cần phải có sự thỏa thuận cụ thể của các bên hay sự đồng ý của bên nhận bảo đảm. Điều đó có nghĩa rằng, khi bên bảo đảm sử dụng tài sản của mình để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm, thì mặc nhiên suy đoán rằng, bên bảo đảm đã trao cho bên nhận bảo đảm quyền định đoạt có điều kiện đối với tài sản của mình. Chỉ cần phát sinh sự kiện, bên có nghĩa vụ được bảo đảm vi phạm nghĩa vụ này đối với bên nhận bảo đảm thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý TSBĐ bằng việc thu hồi TSBĐ và định đoạt TSBĐ theo phương thức mà bên nhận bảo đảm cho là phù hợp, miễn sao, việc xử lý TSBĐ được thực hiện một cách thiện chí, trung thực theo nguyên tắc công bằng và hợp lý(1).
Trước những khó khăn, vướng mắc do quy định mới tại BLDS năm 2015, để có cơ chế nhằm đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu của TCTD, Điều 7 Nghị quyết 42 đã quy định quyền thu giữ TSBĐ của TCTD. Tuy nhiên, quy định trên chỉ mang tính thí điểm và bị giới hạn phạm vi, thời gian áp dụng.
Về thế chấp, cầm cố tài sản để bảo đảm nghĩa vụ của bên thứ ba: Quy định về thế chấp, cầm cố tài sản tại BLDS năm 2015 chưa rõ ràng, không có quy định cụ thể về việc thế chấp, cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho bên thứ ba. Điều này dẫn đến việc có những cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau trên thực tế. Hiện nay, trong quá trình giải quyết tranh chấp, vẫn có một số tòa án có quan điểm việc dùng TSBĐ cho bên thứ ba vay vốn là biện pháp bảo lãnh và hợp đồng bảo đảm phải là hợp đồng ba bên (bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh). Điều này đã gây khó khăn và những rủi ro pháp lý cho TCTD trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản, đối mặt với rủi ro hợp đồng thế chấp/cầm cố tài sản của bên thứ ba bị tuyên vô hiệu.
Hai là, một số quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm chưa có sự đồng bộ, thống nhất. Ví dụ: Hiện nay, quy định về hiệu lực của hợp đồng bảo đảm có sự khác nhau giữa một số loại tài sản. Theo Luật Hàng không dân dụng Việt Nam thì việc thế chấp tàu bay có hiệu lực từ thời điểm được cơ quan đăng ký ghi vào sổ đăng bạ tàu bay Việt Nam; Luật Đất đai quy định, việc thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính; Luật Nhà ở quy định, việc thế chấp nhà ở có hiệu lực từ thời điểm công chứng, chứng thực hợp đồng… Khoản 1 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng”. Như vậy, có sự chưa thống nhất trong quy định về hiệu lực của hợp đồng bảo đảm theo quy định tại các luật, gây khó khăn và rủi ro cho TCTD khi nhận tài sản thế chấp.
Ba là, quy định đặc thù để thúc đẩy xử lý nợ xấu của TCTD còn hạn chế và có nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện.
Nghị quyết 42 được ban hành đã giải quyết được khá nhiều trở ngại và góp phần đáng kể vào việc giảm số lượng nợ xấu. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong các quy định ảnh hưởng đến kết quả triển khai Nghị quyết, cụ thể:
Vướng mắc về quy định thu giữ TSBĐ: Theo quy định tại Nghị quyết 42, TCTD, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu của bên bảo đảm, bên giữ TSBĐ của khoản nợ xấu khi đáp ứng đầy đủ 05 điều kiện, trong đó, có điều kiện yêu cầu hợp đồng tín dụng phải có điều khoản về việc bên bảo đảm đồng ý cho TCTD có quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý TSBĐ theo quy định của pháp luật. Như vậy, đối với những hợp đồng đã ký trước ngày Nghị quyết có hiệu lực mà không có thỏa thuận nói trên, thì TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua, bán nợ không thể tiến hành thu giữ TSBĐ, trừ khi các bên đồng ý sửa đổi, bổ sung hợp đồng đã ký. Trên thực tế, việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng là khó khả thi, đặc biệt tại giai đoạn xử lý TSBĐ, do khách hàng không hợp tác với TCTD trong việc ký văn bản bổ sung nội dung này vào hợp đồng.
Vướng mắc trong việc áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án: Mục tiêu và lợi thế chính của thủ tục rút gọn trong quá trình giải quyết nợ xấu là giảm thời gian và chi phí kiện tụng. Tuy nhiên, hiện nay, số lượng các vụ việc xử lý nợ xấu thông qua thủ tục rút gọn tại Tòa án còn rất hạn chế, điều này phần nào ảnh hưởng đến kết quả xử lý nợ xấu của TCTD. Nguyên nhân của thực trạng trên là, theo quy định tại khoản 3 Điều 317, khoản 4 Điều 323 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn, nếu xuất hiện tình tiết mới mà các bên đương sự không thống nhất, làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn, thì Tòa án phải ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Theo đó, trường hợp bên có nghĩa vụ trả nợ/chủ tài sản/bên bảo đảm không hợp tác, chống đối, rất dễ dẫn đến trường hợp cố tình tạo ra các tình tiết mới để đưa vụ án về thủ tục tố tụng thông thường, nhằm mục đích kéo dài thời gian giải quyết vụ việc. Do đó, nếu không có hướng dẫn cụ thể với những quy định nêu trên, biện pháp áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn có thể không phát huy được hiệu quả xử lý trong thực tế.
Bên cạnh đó, theo quy định của Nghị quyết 42, thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng để xử lý các vấn đề “tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ hoặc tranh chấp về quyền xử lý TSBĐ” mà không giải quyết tổng thể khoản nợ (không áp dụng đối với việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng). Khi khách hàng không trả nợ thì TCTD phải khởi kiện về phần khoản nợ theo thủ tục thông thường, không được áp dụng theo Nghị quyết 42.
Một số quy định khác tại Nghị quyết 42 gặp vướng mắc trong quá trình thi hành do bên cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật chuyên ngành và không áp dụng Nghị quyết 42 khi thực hiện các thủ tục đối với TSBĐ (ví dụ, việc áp dụng quy định về điều kiện chuyển nhượng dự án bất động sản).
Nghị quyết 42 là Nghị quyết thí điểm của Quốc hội, do đó, thời gian áp dụng bị giới hạn (chỉ áp dụng trong 5 năm), phạm vi áp dụng bao gồm: Các khoản nợ được hình thành và xác định là nợ xấu trước ngày 15/8/2017; khoản nợ được hình thành trước ngày 15/8/2017 và được xác định là nợ xấu trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực. Như vậy, những khoản nợ phát sinh sau ngày 15/8/2017 (sau ngày Nghị quyết có hiệu lực thi hành) sẽ không được áp dụng các cơ chế quy định tại Nghị quyết. Trong khi đó, một số điều kiện Nghị quyết đặt ra là điều kiện mới phát sinh mà các bên trong quá trình ký kết, thỏa thuận các hợp đồng, giao dịch trước đó không lường trước (ví dụ, quy định điều kiện thu giữ TSBĐ là trong hợp đồng bảo đảm phải có thỏa thuận về việc bên nhận bảo đảm được quyền thu giữ TSBĐ), dẫn đến không áp dụng được cơ chế tại Nghị quyết. Bên cạnh đó, nợ xấu không chỉ phát sinh tại một thời điểm và trong một khoảng thời gian nhất định. Do đó, cần phải có một chính sách mang tính ổn định, lâu dài, thống nhất, một chính sách ngắn hạn sẽ không xử lý được bài toán tỷ lệ nợ xấu.
Từ những nội dung nêu trên, có thể thấy, hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm tại Việt Nam tương đối đa dạng, phức tạp. Trong thời gian qua, pháp luật về giao dịch bảo đảm đã được hoàn thiện liên tục, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những vướng mắc gây khó khăn, làm chậm tiến độ xử lý nợ xấu của TCTD. Do đó, cần thiết phải có sự rà soát tổng thể các quy định về giao dịch bảo đảm tại các văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm cả những quy định tại văn bản chung và quy định tại các văn bản pháp luật chuyên ngành để sửa đổi, bổ sung đảm bảo sự thống nhất và hỗ trợ đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu của TCTD. Hoạt động hoàn thiện hệ thống pháp luật phải được thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất, trên cơ sở xác định mục tiêu chung là tháo gỡ vướng mắc, tạo điều kiện cho TCTD xử lý nhanh, xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu, tránh để tồn đọng, kéo dài. Bên cạnh đó, cũng cần nghiên cứu để xây dựng một cơ chế riêng cho hoạt động xử lý TSBĐ của các khoản nợ xấu của TCTD, trao một số biện pháp, công cụ để TCTD có thể xử lý nhanh TSBĐ. Đây là biện pháp mang tính lâu dài, song hành cùng các biện pháp khác để hỗ trợ TCTD duy trì tỷ lệ nợ xấu trong mức an toàn, qua đó, đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống, đảm bảo trật tự xã hội, góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước. Theo đó, cần tổng kết Nghị quyết 42 để đề xuất Quốc hội cho phép ban hành Luật Xử lý nợ xấu của TCTD áp dụng chung cho các khoản nợ xấu của TCTD (bao gồm cả các khoản đã và sẽ phát sinh), trong đó, kế thừa, đồng thời có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp các quy định tại Nghị quyết 42.
Địa chỉ : 32 Lê Ngô Cát . tp Huế
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC CÓ GIÁ TRỊ LỚN CHO CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG NGÂN HÀNG.
Thi hành án cho các tổ chức tín dụng, ngân hàng là nhiệm vụ hết sức quan trọng của các cơ quan THADS, không chỉ đảm bảo việc hoàn thành chỉ tiêu được giao hàng năm của các cơ quan THADS mà còn góp phần tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng cải thiện được thanh khoản, mở rộng tín dụng hợp lý, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao sự an toàn, lành mạnh, hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng, thị trường tiền tệ. Trong những năm vừa qua, lượng án tín dụng ngân hàng phải thi hành tại Chi cục THADS huyện Yên Lạc chiếm tỷ lệ lớn so với lượng án tín dụng ngân hàng của toàn tỉnh nói chung và án phải thi hành tại đơn vị nói riêng. Các vụ việc thi hành án liên quan đến tín dụng, ngân hàng tuy chỉ chiếm chiếm 7-9% về việc nhưng chiếm khoảng 75-85% về tiền so với tổng số việc và tiền phải thi hành tại Chi cục. Đặc điểm nổi bật của loại việc này là các tài sản đã được thế chấp tại ngân hàng và có đăng ký giao dịch bảo đảm. Do đó, việc tổ chức thi hành án cũng có nhiều thuận lợi và thời gian tổ chức thi hành án cũng không bị kéo dài.
Tuy nhiên, trên thực tế, cơ quan THADS khi xử lý tài sản bảo đảm thì nhiều trường hợp không thu đủ số tiền phải thi hành án, mặt khác, việc xử lý tài sản bảo đảm rất khó khăn, phức tạp, cụ thể như:
Một là khó khăn việc xác minh hiện trạng tài sản bảo đảm là bất động sản; truy tìm tài sản là động sản. Chi phí xác minh tài sản lớn nhưng cơ quan THADS không được cấp hoặc cấp không đủ.
Hai là khó khăn trong việc giao tài sản và hoàn thiện thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng cho người mua trúng đấu giá,người phải thi hành án không còn tài sản nào khác để thi hành án nên không kết thúc được dẫn đến phải theo dõi.
Ba là Nhiều vụ việc tài sản thế chấp là đất không đúng với hiện trạng sử dụng, như chồng lấn sai ô thửa, tài sản trên đất không đúng với khi lập hồ sơ thế chấp nên mất nhiều thời gian cho việc hoàn thiện hồ sơ cũng như đính chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bốn là việc hoãn thi hành án trong trường hợp Tòa án thụ lý tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm đã được bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành tuyên kê biên, xử lý để đảm bảo thu hồi khoản nợ cho tổ chức tín dụng.
Những khó khăn vướng mắc nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: sự bất cập trong các quy định pháp luật; người phải thi hành án chống đối cản trở việc thi hành án; bản án, quyết định của Tòa án tuyên chưa rõ ràng; sự thiếu tinh thần trách nhiệm của các tổ chức tín dụng, ngân hàng khi cho vay và quản lý tài sản bảo đảm; sự phối hợp và hợp tác của các cơ quan hữu quan trong việc tổ chức thi hành án….
Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trên và nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc có giá trị lớn cho các tổ chức tín dụng Ngân hàng, thiết nghĩ cần thực hiện một số giải pháp sau.
Một là, đối với Thủ trưởng các cơ quan THADS:
Có sự kiểm soát chặt chẽ các hồ sơ ngay từ khâu tiếp nhận đến thụ lý ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành án. Có sự phân công hợp lý hồ sơ thi hành án giữa các Chấp hành viên trong đơn vị, đảm bảo phát huy năng lực của các Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành vụ việc.
Chỉ đạo Chấp hành viên xây dựng các kế hoạch giải quyết các vụ việc phức tạp hoặc có số tiền phải thi hành án lớn. Thường xuyên kiểm tra tiến độ giải quyết hồ sơ của các Chấp hành viên tránh tình trạng hồ sơ “bị quên” hoặc “bị chậm”; kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo tháo gỡ khó khăn cho Chấp hành viên đặc biệt là các khó khăn trong công tác phối hợp. Giải quyết kịp thời khiếu nại của đương sự trong quá trình tổ chức thi hành án tránh tình trạng khiếu nại gay gắt, khiếu nại vượt cấp.
Chủ động tham mưu, đề xuất với Cục THADS tỉnh, Huyện uỷ, HĐND, UBND, Ban chỉ đạo THADS huyện để tranh thủ sự ủng hộ và quan tâm chỉ đạo phối hợp đối với công tác THADS trên địa bàn. Đặc biệt đối với những khó khăn, vướng mắc mà cần có sự tham gia giải quyết của các cơ quan hữu quan. Phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền địa phương tuyên truyền, vận động đương sự tự nguyện thi hành án; phối hợp với các cơ quan VKS,TAND, cơ quan hữu quan trong việc tổ chức giải quyết các vụ việc khó khăn phức tạp.
Có kế hoạch tổ chức thi hành án cụ thể, phù hợp với tính chất, mức độ phức tạp của từng vụ việc; Tập trung chỉ đạo dứt điểm đối với số việc có điều kiện thi hành án. Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, thuyết phục, xác minh, phân loại án có điều kiện, án chưa có điều kiện và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án kịp thời, đúng pháp luật, tránh khiếu nại vượt cấp. Tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc đang bán đấu giá tài sản và các vụ việc đã bán đấu giá tài sản thành nhưng chưa giao được tài sản.
Hai là, đối với các Chấp hành viên:
Khi tiếp nhận quyết định thi hành án được phân công tổ chức thi hành, Chấp hành viên phải nghiên cứu kỹ nội dung bản án, quyết định của Tòa án. Đối chiếu giữa quyết định thi hành án với phần quyết định của bản án, quyết định của Tòa án tránh tình trạng hồ sơ đang hoặc đã tổ chức thi hành án xong mới phát hiện ra quyết định thi hành án có vấn đề.
Xác định rõ các công việc cần phải thực hiện trong quá trình tổ chức thi hành án, các vấn đề cần phải xác minh, làm rõ về điều kiện thi hành án, tài sản bảo đảm của người phải thi hành án… để có sự phân bổ thời gian giải quyết phù hợp, tránh tình trạng chậm hoặc bỏ sót thủ tục thi hành án. Trong quá trình tổ chức thi hành án Chấp hành viên phải tuân thủ chặt chẽ các thủ tục về thi hành án (về cả hình thức lẫn nội dung) cũng như thực hiện lưu trữ đầy đủ các tài liệu.
Đối với tài sản của người thứ ba thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ cho người phải thi hành án, trước khi kê biên, xử lý tài sản của thì Chấp hành viên cần làm việc với chính quyền địa phương để tuyên truyền, giải thích rõ nghĩa vụ thi hành án của người thứ ba để chính quyền nắm được thông tin, có sự chia sẻ và hỗ trợ cơ quan THADS trong quá trình kê biên, xử lý tài sản.
Đối với doanh nghiệp phải thi hành án, Chấp hành viên nên thực hiện các quyền mà pháp luật đã cho phép như cấm xuất cảnh để hạn chế người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp dời khỏi Việt Nam gây khó khăn cho việc tổ chức thi hành án.
Tiến hành kiểm tra năng lực của các tổ chức làm dịch vụ liên quan đến quá trình tổ chức thi hành án như: tổ chức đo vẽ đất, tổ chức thẩm định giá, tổ chức đấu giá tài sản … trước khi quyết định lựa chọn và ký hợp đồng dịch vụ. Khi ký các hợp đồng dịch vụ Chấp hành viên phải xác định rõ thời hạn mà các tổ chức đó phải hoàn thành tránh tình trạng kéo dài làm ảnh hưởng đến thời gian tổ chức thi hành án, đồng thời phải kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện hợp đồng đặc biệt là hợp đồng với các tổ chức đấu giá nhằm đảm bảo việc thực hiện hợp đồng theo nội dung đã ký kết và đúng quy định pháp luật.
Trước khi thực hiện việc kê biên, Chấp hành viên phải xác định rõ các khoản thuế, phí liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản và trách nhiệm nộp cũng như khả năng nộp (đối với trường hợp người phải thi hành án có nghĩa vụ nộp), các loại thuế, phí khác mà người phải thi hành án còn nợ (nếu có) … trên cơ sở đó thông báo công khai để người có nhu cầu đăng ký mua tài sản biết, cân nhắc trước khi quyết định.
Chấp hành viên chỉ tiến hành làm việc đại diện của tổ chức tín dụng, ngân hàng khi họ được ủy quyền. Chấp hành viên phải yêu cầu các tổ chức tín dụng, ngân hàng phải nộp giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất ngay sau khi kê biên (yêu cầu này phải được thể hiện bằng văn bản), trường hợp các tổ chức tín dung, ngân hàng không chấp hành Chấp hành viên nên tiến hành xử phạt vi phạm về hành chính theo quy định tại khoản 2 Điều 52 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 24/8/2015) của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Chấp hành viên phải thực hiện việc cung cấp thông tin trong trường hợp kê biên hoặc giải tỏa kê biên tài sản thi hành án theo đúng quy định tại Điều 11 của Thông tư liên tịch số 15/2013/TTLT-BTP-BGTVT-BTNMT-BCA ngày 05/11/2013 giữa Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Công an hướng dẫn việc trao đổi, cung cấp thông tin về tài sản bảo đảm giữa cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm với tổ chức hành nghề công chứng, cơ quan THADS và cơ quan đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền lưu hành tài sản.
Kịp thời báo cáo những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành án để lãnh đạo đơn vị biết và chỉ đạo, giải quyết. Trong quá trình thi hành án Chấp hành viên phải tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhất là tuyên truyền về Luật THADS để đương sự hiểu và tự nguyện thi hành án.
Ba là, Đối với Ngân hàng và các tổ chức tín dụng
Để hạn chế những rủi ro do việc kinh doanh từ khi ký kết hợp đồng tín dụng khi cho vay Ngân hàng và các tổ chức tín dụng cần cân nhắc nhận thế chấp cả tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất; tổ chức thẩm định hồ sơ chặt chẽ về tình trạng tài sản thế chấp, bảo lãnh, thẩm định giá theo đúng giá trị thực tế và đánh giá tác động về biến động giá trị của tài sản trong tương lai gần. Trong quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng, tổ chức tín dụng, ngân hàng cần có biện pháp theo dõi, kiểm tra tài sản đảm bảo, kịp thời có biện pháp xử lý khi có vấn đề vướng mắc xảy ra. Đồng thời, nếu vụ việc đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết thì tổ chức tín dụng, ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với Tòa án và cơ quan có thẩm quyền trong quá trình tố tụng để đảm bảo bản án, quyết định có tính khả thi (nhất là đối với các loại việc công nhận hòa giải thành).
Quá trình thi hành án cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan THADS, lập kế hoạch để tổ chức thực hiện; xử lý các vướng mắc về chuyên môn nghiệp vụ, kiểm tra việc triển khai và thực hiện. Trong quá trình tổ chức thi hành án, tổ chức tín dụng, ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với cơ quan THADS trong việc giải quyết thi hành án; đẩy mạnh phối hợp trong công tác xác minh, thông báo thi hành án, kê biên và thẩm định giá, bán đấu giá tài sản. Trường hợp tài sản không bán được, đề nghị ngân hàng và tổ chức tín dụng xem xét có hướng nhận tài sản để đảm bảo thi hành án, vì hầu hết các vụ việc tồn đọng hiện nay đã kê biên, giảm giá nhiều lần không bán được.
Có thể thấy, để việc giải quyết các vụ việc có giá trị lớn cho các tổ chức tín dụng Ngân hàng sự đạt hiệu quả tích cực thì cần hạn chế, loại trừ triệt để các nguyên nhân, lý do dẫn đến khó khăn, vướng mắc, bất cập nêu trên. Và để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, bất cập này cần phải có sự vào cuộc kịp thời, quyết liệt, đồng bộ, sự nỗ lực, cố gắng của nhiều bên trong đó chủ thể chính là Cơ
quan THADS, Các tổ chức tín dụng ngân hàng, ngoài ra cũng không thể thiếu được sự
phối hợp chặt chẽ, tích cực của các ban, ngành, đoàn thể, các cơ quan liên quan trong quá trình tổ chức thi hành án.
Bài viêt Luật gia NGUYỄN THỊ KIM
Tiểu luận môn pháp luật bảo đảm