Hiện nay, cộng đồng LGBT chiếm một tỉ lệ khá lớn trong xã hội, họ mong muốn được sống thật với chính mình, làm những điều mình muốn và mong muốn được xã hội và pháp luật thừa nhận. Vậy liệu tình yêu, cuộc sống hôn nhân của họ có hạnh phúc như các cặp vợ chồng bình thường khác? Đã thực sự được xã hội nhìn nhận đúng đắn và đặc biệt là chấp nhận con người, tình yêu và hôn nhân giữa họ? Với bài viết này, Công ty Luật Kỷ Nguyễn & Cộng sự chúng tôi xin cung cấp tới bạn các thông tin mới nhất theo quy định của pháp luật về hôn nhân đồng giới.
Để hiểu về hôn nhân đồng giới, trước hết chúng ta phải có cái nhìn đúng đắn về những người đồng giới (đồng tính).
- Thế nào là hôn nhân đồng giới?
Hôn nhân đồng giới hay hôn nhân đồng tính là hôn nhân giữa hai người có cùng giới tính sinh học. Đó có thể là cuộc sống chung giữa hai người là đồng tính nam hoặc đồng tính nữ với nhau. Hôn nhân giữa những người này xuất phát từ tình yêu đồng giới. Họ tìm thấy ở những người cùng giới tính như mình sự yêu thương, sự đồng cảm, ấm áp và mong muốn cùng nhau về chung một nhà. Hôn nhân đồng giới có khi còn được gọi là “hôn nhân bình đẳng” hay “bình đẳng hôn nhân”, thuật ngữ này thường được sử dụng phổ biến từ những người ủng hộ. Việc hợp pháp hoá hôn nhân đồng giới còn được mô tả bằng thuật ngữ “định nghĩa lại hôn nhân” từ các trường phái có quan điểm đối lập.
- Thực trạng về hôn nhân đồng giới ở Việt Nam hiện nay.
Những người đồng tính là một bộ phận nằm trong cộng đồng LGBT: đồng tính nữ (lesbian), đồng tính nam (gay), song tính (thích của hai giới nam và nữ), chuyển giới (là người có sinh ra có cảm nhận về tâm hồn thể xác trái ngược với giới tính sinh học của mình). Kể từ khi Hà Lan là nước đầu tiên hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới vào tháng 01 năm 2001 cho đến nay trên thế giới trong số 220 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, đã có 29 quốc gia/vùng lãnh thổ chính thức công nhận hôn nhân đồng giới. Họ có thể kết hôn hợp pháp với nhau và được pháp luật bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp có liên quan như các cặp vợ chồng khác. Ở khu vực châu Á, vào năm 2017, Quốc hội Đài Loan trở thành cơ quan đầu tiên đồng ý hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính. Những người đồng tính được công nhận, được có các quyền và nghĩa vụ pháp lý, được pháp luật bảo vệ như các cặp vợ chồng thông thường.
Ở Việt Nam hiện chưa có một cuộc nghiên cứu chính thức nào về giới tính mà đặc biệt là thống kê những người đồng tính nam và đồng tính nữ. Theo một thống kê chưa chính thức từ tổ chức phi chính phủ CARE ước tính đến năm 2012 thì Việt Nam có khoảng từ 50.000 – 125.000 người đồng tính. Hiện nay là năm 2021 thì những con số này đã tăng lên rất nhiều, một phần là do xã hội đã cởi mở và ít kỳ thị hơn nên những người đồng tính công khai ngày càng nhiều hơn. Số lượng các cặp đôi công khai hôn nhân đồng tính của mình ngày càng tăng. Nước ta cũng đã có cái nhìn cởi mở hơn về cuộc sống hôn nhân giữa họ bởi họ thực sự yêu thương, tôn trọng lẫn nhau, là những người có ích cho xã hội.
- Pháp luật Việt Nam về hôn nhân đồng giới.
Từ 1/1/2015, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì đã bỏ quy định về cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, nhưng vẫn chưa thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 vẫn quy định “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” (khoản 2 Điều 8). Không thừa nhận có nghĩa rằng pháp luật không cho phép người đồng giới đăng kí kết hôn tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay được coi như vợ – chồng với các quyền và nghĩa vụ tương ứng.
Như vậy, theo quy định trên thì hôn nhân đồng tính không còn bị cấm. Người đồng tính có thể tổ chức hôn lễ, chung sống với nhau nhưng dưới con mắt pháp luật thì không được coi như vợ chồng và không thể đăng kí kết hôn với cơ quan nhà nước, sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra. Bởi lẽ, nếu không được Nhà nước thừa nhận thì cuộc hôn nhân đó sẽ không được pháp luật bảo vệ trong quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản.
Vậy Cộng đồng LGBT Việt Nam nên mừng hay lo khi cuộc hôn nhân của họ không được pháp luật bảo vệ!
+ Thứ nhất, về quan hệ nhân thân, giữa họ sẽ không có một ràng buộc nào về mặt pháp lý. Tất nhiên, quan hệ giữa họ không được gọi là quan hệ vợ chồng cho nên sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng. Họ sẽ không được cấp “giấy đăng ký kết hôn”. Điều này đặt ra câu hỏi, đứa con do họ nhận nuôi sẽ được cấp giấy khai sinh như thế nào? Vấn đề này vẫn đang bị bỏ ngõ vì không xác định được cha và mẹ.
+ Thứ hai, về quan hệ tài sản, giữa họ cũng sẽ không có “chế độ tài sản trong thời kỳ hôn nhân”. Tức là quan hệ tài sản giữa họ “trong thời kỳ hôn nhân” không được pháp luật bảo vệ. Như vậy, nếu có phát sinh tranh chấp, tài sản giữa họ sẽ được giải quyết theo Bộ luật dân sự.
– Vấn đề được đặt ra, khi mà Bộ luật dân sự 2015 cho phép cá nhân có quyền xác định lại giới tính thì liệu rằng cuộc hôn nhân hợp pháp của vợ chồng khi một trong hai người (vợ hoặc chồng) chuyển giới có còn hợp pháp hay không?
+ Thứ nhất, chúng ta cần xác định nếu trường hợp vợ hoặc chồng sau khi chuyển giới thì cuộc hôn nhân đó sẽ trở thành hôn nhân đồng giới.
+ Thứ hai, căn cứ vào Khoản 2, Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì hai người này đã vi phạm điều kiện kết hôn. Do đó, đây thuộc trường hợp kết hôn trái pháp luật theo Khoản 6, Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này.”
+ Việc xử lý và hậu quả pháp lý của việc xử lý kết hôn trái pháp luật được thực hiện theo quy định tại Điều 11 và
Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
- Có nên công nhận hôn nhân đồng giới ở Việt Nam hay không?
Hiện nay, nhu cầu công nhận hôn nhân đồng giới ở Việt Nam là rất lớn. Các cặp đôi đồng tính tại nước ta đều kỳ vọng rằng pháp luật Việt Nam cho phép kết hôn đồng giới như 29 quốc gia/vùng lãnh thổ khác trên thế giới. Những người trong cộng đồng LGBT đều khao khát được kết hôn với những người có cùng giới tính để đồng cảm, chia sẻ, quan tâm và chăm sóc lẫn nhau, cùng xây dựng hạnh phúc gia đình.
Ở Việt Nam, việc thừa nhận hôn nhân đồng giới có lẽ sẽ mất khá nhiều thời gian. Hiện nay, trong xã hội vẫn phân ra 2 luồng quan điểm: Nhiều người nhìn nhận vấn đề một cách nhẹ nhàng hơn, họ muốn hướng tới quyền con người, tính nhân văn và giảm kỳ thị trong xã hội. Tuy nhiên cũng bởi nước ta là nước mang nền văn hóa Á Đông nên có nhiều người có quan điểm việc thừa nhận kết hôn đồng giới sẽ ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, truyền thống của dân tộc, không phù hợp với quy luật sinh học vốn có và không đảm bảo được việc duy trì nòi giống. Ngoài ra, thừa nhận hôn nhân đồng giới cũng dẫn đến rất nhiều hệ quả xã hội mà chúng ta chưa lường trước được.
Nếu thừa nhận hôn nhân đồng giới, các quy định của pháp luật liên quan sẽ phải sửa đổi, bổ sung về vấn đề xác định cha, mẹ, con. Các quy định về Luật hộ tịch cũng gây ra nhiều khó khăn trong quản lý và thực thi.
Cty Luật Kỷ Nguyễn và cộng sự
ĐT 0888 584 575 Đ/c 32 Lê Ngô Cát, Thủy Xuân TP Huế


